다문화가정 자녀 이중 언어 교육 인식과
자녀 발달에 관한 질적 연구
-베트남 이주여성을 중심으로-
휜 티 탄 튀
대신대학교 대학원
사회복지학과 사회복지학전공
지도교수 김광수
<국문초록>
자본과 노동의 이동이 세계적인 추세로 나타나고 있는 최근의 현상 속에서, 우리는 보다 더 나은 삶을 찾아서 자신의 모국을 떠나 새로운 터전의 땅으로 이주하는 사람들을 목격하고 있다. 한국 사회도 이런 변화 속에서 외국인 노동자와 결혼 이주여성으로 대표되는 인구 이동을 경험하고 있으며 다민족, ...
다문화가정 자녀 이중 언어 교육 인식과
자녀 발달에 관한 질적 연구
-베트남 이주여성을 중심으로-
휜 티 탄 튀
대신대학교 대학원
사회복지학과 사회복지학전공
지도교수 김광수
<국문초록>
자본과 노동의 이동이 세계적인 추세로 나타나고 있는 최근의 현상 속에서, 우리는 보다 더 나은 삶을 찾아서 자신의 모국을 떠나 새로운 터전의 땅으로 이주하는 사람들을 목격하고 있다. 한국 사회도 이런 변화 속에서 외국인 노동자와 결혼 이주여성으로 대표되는 인구 이동을 경험하고 있으며 다민족, 다문화 사회로 나아가는 계기가 되었다. 온 세계의 여성 이주로 인해 한국 사회로 유입되는 결혼 이주여성의 가파른 증가 추세가 최근 다소 꺾이고는 있지만 다문화가정에서 태어난 자녀의 수가 감소하지 않고 매년 증가하고 있다.
결혼 이주여성들이 한국생활에 적응해 가는데 가장 어려운 점 중에 한국어 능력의 부족으로 인해 생겨나는 의사소통의 곤란을 들 수 있다. 이들은 한국어로 자신의 감정과 견해를 표현하지 못한 데서 심한 심리적 위축감을 가지고 있으며, 한국에서 자녀들을 교육시켜 가는데 자신감을 잃어 가기도 한다. 한편 다문화가정 자녀의 입장에서도 많은 적응의 문제가 상존하고 있는 것이 현실이다.
한국 사회는 이런 결혼 이주여성들의 한국 적응문제와 그 가족 구성원들 간의 갈등 문제 등을 지적하고 대책들을 제시하면서 이들의 조속한 ‘한국화’를 강조해 왔다. 또한 그들의 가족구성원들도 결혼 이주여성의 모어보다 서투른 한국어를 강요하였으며 한국어로만 자녀와 대화하는 결혼 이주여성이 의사소통이나 감정 표현과 자녀 훈육에 있어 여러 가지 어려움을 겪게 되었다.
그러므로 본 연구는 한국 내의 다문화가정 자녀수의 측면에서 가장 높은 수치를 나타내고 있는 베트남 이주여성을 대상으로 하며 심층 면담을 통해 그들이 자녀의 이중 언어 교육을 어떻게 인식하고 있는지, 한국어로만 소통하던 자녀가 이중 언어를 학습한 이후 그 자녀의 발달이 어떻게 변화했는지를 밝히고자 한다. 이중 언어 교육에 대한 베트남 이주여성의 인식의 첫째로, 이중 언어 교육에 대한 부정적 인식; 둘째로, 한국어로 자녀 양육의 한계; 셋째로, 이중 언어 교육을 시작하는 계기; 넷째로, 본격적인 이중 언어 교육; 다섯째로, 이중 언어 교육의 결과를 바탕으로 구성하여 살펴보았다.
* 주요어: 다문화가정, 이중 언어, 모어, 베트남 이주여성
다문화가정 자녀 이중 언어 교육 인식과
자녀 발달에 관한 질적 연구
-베트남 이주여성을 중심으로-
휜 티 탄 튀
대신대학교 대학원
사회복지학과 사회복지학전공
지도교수 김광수
<국문초록>
자본과 노동의 이동이 세계적인 추세로 나타나고 있는 최근의 현상 속에서, 우리는 보다 더 나은 삶을 찾아서 자신의 모국을 떠나 새로운 터전의 땅으로 이주하는 사람들을 목격하고 있다. 한국 사회도 이런 변화 속에서 외국인 노동자와 결혼 이주여성으로 대표되는 인구 이동을 경험하고 있으며 다민족, 다문화 사회로 나아가는 계기가 되었다. 온 세계의 여성 이주로 인해 한국 사회로 유입되는 결혼 이주여성의 가파른 증가 추세가 최근 다소 꺾이고는 있지만 다문화가정에서 태어난 자녀의 수가 감소하지 않고 매년 증가하고 있다.
결혼 이주여성들이 한국생활에 적응해 가는데 가장 어려운 점 중에 한국어 능력의 부족으로 인해 생겨나는 의사소통의 곤란을 들 수 있다. 이들은 한국어로 자신의 감정과 견해를 표현하지 못한 데서 심한 심리적 위축감을 가지고 있으며, 한국에서 자녀들을 교육시켜 가는데 자신감을 잃어 가기도 한다. 한편 다문화가정 자녀의 입장에서도 많은 적응의 문제가 상존하고 있는 것이 현실이다.
한국 사회는 이런 결혼 이주여성들의 한국 적응문제와 그 가족 구성원들 간의 갈등 문제 등을 지적하고 대책들을 제시하면서 이들의 조속한 ‘한국화’를 강조해 왔다. 또한 그들의 가족구성원들도 결혼 이주여성의 모어보다 서투른 한국어를 강요하였으며 한국어로만 자녀와 대화하는 결혼 이주여성이 의사소통이나 감정 표현과 자녀 훈육에 있어 여러 가지 어려움을 겪게 되었다.
그러므로 본 연구는 한국 내의 다문화가정 자녀수의 측면에서 가장 높은 수치를 나타내고 있는 베트남 이주여성을 대상으로 하며 심층 면담을 통해 그들이 자녀의 이중 언어 교육을 어떻게 인식하고 있는지, 한국어로만 소통하던 자녀가 이중 언어를 학습한 이후 그 자녀의 발달이 어떻게 변화했는지를 밝히고자 한다. 이중 언어 교육에 대한 베트남 이주여성의 인식의 첫째로, 이중 언어 교육에 대한 부정적 인식; 둘째로, 한국어로 자녀 양육의 한계; 셋째로, 이중 언어 교육을 시작하는 계기; 넷째로, 본격적인 이중 언어 교육; 다섯째로, 이중 언어 교육의 결과를 바탕으로 구성하여 살펴보았다.
A Qualitative Research on Multicultural Families' Perception toward Bilingual Education of Their Children and Its Outcomes on The Children
- Focusing on Vietnamese Migrant Women -
Huynh Thi Thanh Thuy
Department of Social Welfare
Graduate School of Daeshin Christian...
A Qualitative Research on Multicultural Families' Perception toward Bilingual Education of Their Children and Its Outcomes on The Children
- Focusing on Vietnamese Migrant Women -
Huynh Thi Thanh Thuy
Department of Social Welfare
Graduate School of Daeshin Christian University
Supervised by Professor Kim, Kwang Soo
The purpose of this study is to explore Vietnamese migrant women's perception toward a bilingual education of their children and its outcomes on the children through a qualitative research method.
The result of the study has indicated that:
Firstly, as Vietnamese migrant women have a negative understanding on bilingual education to their children, teaching their mother tongue to the children is not a priority.
Secondly, with their choice of Korean language as a means for their children education, Vietnamese migrant women are facing difficulties and limitations of their own in doing so practically.
Thirdly, the motivation for Vietnamese migrant women to teach their children bilingually varies. Some have come to a realization that Vietnamese language the only language they master and are able to pass it on to their children. Others after attending a training on children education at the multicultural center have begun to understand the importance of teaching their children bilingually. Others expect their children by knowing the language then would know more of Vietnam and have a closer bond with the mother side. And others hope for a better future for themselves and for their children when they understand the mother tongue.
Fourthly, with these strong convictions in mind, Vietnamese migrant women have begun to train their children bilingually by both teaching them at home with daily conversation and sending them to dual language schools.
Fifthly, there are remarkable changes in the children from multicultural families after the education. Now that the children can communicate with their mothers, they have a common ground for sharing and understanding each other, the relationship thereby is being strengthened. They also begin to take pride in their mothers and to show more care to the mother side and the relationship thereby are getting closer. And when being able to communicate in the mother tongue, the children gain more confidence in life and become the pride of family and friends.
We are living in a time when the world is becoming a family, and in this environment, the children in multicultural families should be planted with dreams for a better future. And Korea should come up with proper policies to nurture them to become international talents by providing an environment in which their strengths will be developed and strengthened to later serve the country. Korea is expected to have a social structure in which mother tongue and culture will no longer a hindrance but a stepping stone and tool for the children development.
Keyword: Multicultural families, bilingual, mother tongue, Vietnamese migrant women Nhận thức của phụ nữ về giáo dục song ngữ cho con cái và kết quả của việc giáo dục
- Đối tượng nghiên cứu chính: phụ nữ di trú Việt Nam -
Huỳnh Thị Thanh Thủy
Trường: Đại học Daeshin
Khoa: Phúc lợi xã hội
Giáo sư hướng dẫn: Kim Kwang Soo
Mục đích của nghiên cứu này là tìm hiểu nhận thức của phụ nữ di trú Việt Nam tại Hàn Quốc trong việc giáo dục song ngữ cho con cái và kết quả của việc giáo dục này trên con cái của họ.
Luận văn này đề cập đến những vấn đề như sau:
Thứ nhất, phụ nữ di trú Việt Nam có nhận thức tiêu cực về việc giáo dục song ngữ cho con cái, nên dạy tiếng mẹ đẻ cho con không phải là điều ưu tiên của họ.
Thứ hai, phụ nữ di trú Việt Nam sau khi chọn tiếng Hàn để giáo dục con cái đã gặp phải nhiều khó khăn và nhận thấy hạn chế của bản thân khi thực hiện điều này trong thực tế.
Thứ ba, động cơ để bắt đầu giáo dục song ngữ cho con cái của phụ nữ di trú Việt Nam rất đa dạng. Một số người nhận thấy tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ mà bản thân thành thạo nhất trong các ngôn ngữ và có thể dạy lại cho con. Những người khác sau khi tham gia chương trình giáo dục con cái của trung tâm đa văn hóa, họ nhận thấy tầm quan trọng của việc giáo dục tiếng mẹ đẻ cho con mình. Một số người khác muốn thông qua tiếng mẹ đẻ mà con cái của mình có thể biết nhiều hơn về Việt Nam và gần gũi hơn với gia đình bên ngoại. Trong khi đó, những người khác thì thông qua việc biết tiếng mẹ đẻ, họ mơ ước một tương lai tốt đẹp hơn cho con cái và bản thân mình.
Thứ tư, với những niềm tin này, phụ nữ di trú Việt Nam đã bắt đầu giáo dục song ngữ cho con cái mình. Họ bắt đầu dạy con học tại nhà từ những từ vựng sử dụng thông thường hằng ngày và cũng đã cho con đến trường học song ngữ.
Thứ năm, con cái trong các gia đình đa văn hóa sau khi được giáo dục song ngữ, đã có nhiều sự thay đổi. Vì bây giờ có thể nói chuyện trao đổi với mẹ, nên các em có thể chia sẻ, cảm thông và hiểu hơn về mẹ của mình và qua đó mối quan hệ của mẹ con ngày càng khắng khít. Các em cũng bày tỏ niềm tự hào về mẹ của mình với người khác, cũng biết quan tâm đến nhà ngoại và mối quan hệ của các em với gia đình bên ngoại cũng gần gũi hơn. Và vì có thể nói được tiếng mẹ đẻ, các em đã trở nên tự tin hơn trong cuộc sống và là niềm tự hào của gia đình và bạn bè.
Trong thời điểm thế giới đang trở nên một gia đình, chúng ta nên gieo ước mơ cho các em được sinh ra trong gia đình đa văn hóa. Hàn Quốc cần có những chính sách thích hợp để nuôi dưỡng các em trở thành nhân tài thế giới; cần tạo điều kiện để các em có thể phát triển những điểm mạnh riêng của mình và sau này có thể cống hiến cho đất nước. Hàn Quốc phải hình thành một cơ cấu xã hội trong tương lai để ngôn ngữ hay văn hóa mẹ đẻ không còn là điều trở ngại cho con cái trong gia đình đa văn hóa nữa, mà trở thành bàn đạp và công cụ cho sự phát triển của các em.
Từ ngữ chính: gia đình đa văn hóa, song ngữ, tiếng mẹ đẻ, phụ nữ di trú Việt Nam
A Qualitative Research on Multicultural Families' Perception toward Bilingual Education of Their Children and Its Outcomes on The Children
- Focusing on Vietnamese Migrant Women -
Huynh Thi Thanh Thuy
Department of Social Welfare
Graduate School of Daeshin Christian University
Supervised by Professor Kim, Kwang Soo
The purpose of this study is to explore Vietnamese migrant women's perception toward a bilingual education of their children and its outcomes on the children through a qualitative research method.
The result of the study has indicated that:
Firstly, as Vietnamese migrant women have a negative understanding on bilingual education to their children, teaching their mother tongue to the children is not a priority.
Secondly, with their choice of Korean language as a means for their children education, Vietnamese migrant women are facing difficulties and limitations of their own in doing so practically.
Thirdly, the motivation for Vietnamese migrant women to teach their children bilingually varies. Some have come to a realization that Vietnamese language the only language they master and are able to pass it on to their children. Others after attending a training on children education at the multicultural center have begun to understand the importance of teaching their children bilingually. Others expect their children by knowing the language then would know more of Vietnam and have a closer bond with the mother side. And others hope for a better future for themselves and for their children when they understand the mother tongue.
Fourthly, with these strong convictions in mind, Vietnamese migrant women have begun to train their children bilingually by both teaching them at home with daily conversation and sending them to dual language schools.
Fifthly, there are remarkable changes in the children from multicultural families after the education. Now that the children can communicate with their mothers, they have a common ground for sharing and understanding each other, the relationship thereby is being strengthened. They also begin to take pride in their mothers and to show more care to the mother side and the relationship thereby are getting closer. And when being able to communicate in the mother tongue, the children gain more confidence in life and become the pride of family and friends.
We are living in a time when the world is becoming a family, and in this environment, the children in multicultural families should be planted with dreams for a better future. And Korea should come up with proper policies to nurture them to become international talents by providing an environment in which their strengths will be developed and strengthened to later serve the country. Korea is expected to have a social structure in which mother tongue and culture will no longer a hindrance but a stepping stone and tool for the children development.
Keyword: Multicultural families, bilingual, mother tongue, Vietnamese migrant women Nhận thức của phụ nữ về giáo dục song ngữ cho con cái và kết quả của việc giáo dục
- Đối tượng nghiên cứu chính: phụ nữ di trú Việt Nam -
Huỳnh Thị Thanh Thủy
Trường: Đại học Daeshin
Khoa: Phúc lợi xã hội
Giáo sư hướng dẫn: Kim Kwang Soo
Mục đích của nghiên cứu này là tìm hiểu nhận thức của phụ nữ di trú Việt Nam tại Hàn Quốc trong việc giáo dục song ngữ cho con cái và kết quả của việc giáo dục này trên con cái của họ.
Luận văn này đề cập đến những vấn đề như sau:
Thứ nhất, phụ nữ di trú Việt Nam có nhận thức tiêu cực về việc giáo dục song ngữ cho con cái, nên dạy tiếng mẹ đẻ cho con không phải là điều ưu tiên của họ.
Thứ hai, phụ nữ di trú Việt Nam sau khi chọn tiếng Hàn để giáo dục con cái đã gặp phải nhiều khó khăn và nhận thấy hạn chế của bản thân khi thực hiện điều này trong thực tế.
Thứ ba, động cơ để bắt đầu giáo dục song ngữ cho con cái của phụ nữ di trú Việt Nam rất đa dạng. Một số người nhận thấy tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ mà bản thân thành thạo nhất trong các ngôn ngữ và có thể dạy lại cho con. Những người khác sau khi tham gia chương trình giáo dục con cái của trung tâm đa văn hóa, họ nhận thấy tầm quan trọng của việc giáo dục tiếng mẹ đẻ cho con mình. Một số người khác muốn thông qua tiếng mẹ đẻ mà con cái của mình có thể biết nhiều hơn về Việt Nam và gần gũi hơn với gia đình bên ngoại. Trong khi đó, những người khác thì thông qua việc biết tiếng mẹ đẻ, họ mơ ước một tương lai tốt đẹp hơn cho con cái và bản thân mình.
Thứ tư, với những niềm tin này, phụ nữ di trú Việt Nam đã bắt đầu giáo dục song ngữ cho con cái mình. Họ bắt đầu dạy con học tại nhà từ những từ vựng sử dụng thông thường hằng ngày và cũng đã cho con đến trường học song ngữ.
Thứ năm, con cái trong các gia đình đa văn hóa sau khi được giáo dục song ngữ, đã có nhiều sự thay đổi. Vì bây giờ có thể nói chuyện trao đổi với mẹ, nên các em có thể chia sẻ, cảm thông và hiểu hơn về mẹ của mình và qua đó mối quan hệ của mẹ con ngày càng khắng khít. Các em cũng bày tỏ niềm tự hào về mẹ của mình với người khác, cũng biết quan tâm đến nhà ngoại và mối quan hệ của các em với gia đình bên ngoại cũng gần gũi hơn. Và vì có thể nói được tiếng mẹ đẻ, các em đã trở nên tự tin hơn trong cuộc sống và là niềm tự hào của gia đình và bạn bè.
Trong thời điểm thế giới đang trở nên một gia đình, chúng ta nên gieo ước mơ cho các em được sinh ra trong gia đình đa văn hóa. Hàn Quốc cần có những chính sách thích hợp để nuôi dưỡng các em trở thành nhân tài thế giới; cần tạo điều kiện để các em có thể phát triển những điểm mạnh riêng của mình và sau này có thể cống hiến cho đất nước. Hàn Quốc phải hình thành một cơ cấu xã hội trong tương lai để ngôn ngữ hay văn hóa mẹ đẻ không còn là điều trở ngại cho con cái trong gia đình đa văn hóa nữa, mà trở thành bàn đạp và công cụ cho sự phát triển của các em.
Từ ngữ chính: gia đình đa văn hóa, song ngữ, tiếng mẹ đẻ, phụ nữ di trú Việt Nam
※ AI-Helper는 부적절한 답변을 할 수 있습니다.